Đàn Hương Hình
Phan_31
- Ơø, mấy vở đó là ta đánh cắp trong kịch chủng của thiên hạ. Như hiền đệ đã biết, để học lỏm, ta đã từng đi theo hơn một chục gánh hát làm tạp dịch, sắm vai phụ, từng xuống Giang Nam, ra Sơn Tây, qua Trường Giang, vào Lưỡng Quảng. Không có loại kịch nghệ nào mà sư phụ không biết hát, không có vai diễn nào mà sư phụ không thể đóng. Như một con ong, sư phụ lấy phấn của trăm hoa, luyện thành mật Miêu Xoang.
- Sư phụ, người là bậc kỳ tài!
- Ta ao ước đến cháy bỏng, là một ngày nào đó, ta sẽ trình diễn Miêu Xoang ở Bắc Kinh để Hoàng thượng Hoàng Thái Hậu xem. Ta sẽ đưa Miêu Xoang lên tầm quốc hí. Miêu Xoang trở thành quốc hí thì không sợ mai một ở nam bắc Trường Giang. Tiếc là chí ta chưa đạt thì có kẻ gian ác vặt hết râu của ta. Râu là cái uy của ta, là cái gan của ta, là linh hồn của Miêu Xoang! Ta mất râu như mèo mất ria, như gà sống mất lông đuôi, như tuấn mã bị cắt trụi lông, bờm. Đồ đệ ơi, sư phụ không còn cách nào khác, đành mở một quán trà, rau cháo qua ngày… Rõ là tráng chí chưa thành, thân đã bại! Anh hùng đau lắm, lệ tràn mi.
Kể đến đây, tui thấy tri huyện Cao Mật run bần bật, thấy Uùt Sơn nước mắt lưng tròng.
- Đồ đệ, vở Miêu Xoang ruột của ta là “Thường Miêu khóc tang”, đây là một vở hoành tráng của sư phụ. Nó cũng là vở mở màn cho mùa diễn hàng năm. Vở này là diễn tốt, đảm bảo thuận lợi cho cả mùa; diễn không tốt, chắc chắn sẽ sinh chuyện. Chú em quê Đông Bắc ta, đã xem vở diễn này bao lần rồu?
- Đồ đệ không nhớ rõ, cũng phải mấy chục lần.
- Chú có thấy lần biểu diễn nào giống như lần diễn nào không?
- Không ạ, mỗi lần xem đều thấy mới hoàn toàn – Uùt Sơn thấy người lâng lâng – Đệ tử còn nhớ có lần xem “Thường Miêu khóc tang” của sư phụ, khi ấy đệ tử còn là một đứa trẻ, đội trên đầu tấm da mèo. Nghe sư phụ hát, chim sẻ rớt từ trên cây xuống đất. Hấp dẫn nhất chưa phải là lời ca của sư phụ, mà là nhại tiếng mèo của cậu thanh niên, không tiếng nào giống tiếng nào. Diễn đến nửa chừng thì người lớn trẻ con phát điên. Tụi con len lỏi giữa đám đông, nhại tiếng mèo kêu, mi-ao mi-ao mi-ao. Góc sân có ba cây đại thụ, bọn con tranh nhau trèo lên. con có biết trèo cây đâu, vậy mà trèo thoăn thoắt đúng là đã hóa thành mèo! Trên cây có rất nhiều mèo thật, không hiểu chúng trèo lên từ khi nào. Chúng gào thi cùng bọn trẻ, mi-ao mi-ao mi-ao, trên dưới sân khấu, trên trời dưới đất, đâu đâu cũng vang lên tiếng mèo. Đàn ông đàn bà người già người trẻ mèo thật mèo giả quyện vào nhau, cuốn lấy nhau, thân hình lắ clư, có những động tác mà lúc bình thường không thể làm nổi. Cuối cùng, ai nấy mồ hôi ướt đầm, nước mắt nước mũi giàn giụa, chân tay mỏi rời ngã lăn ra đất, hồn bay đi chỉ còn cái xác. Mèo trẻ con trên cây từng đứa rớt xuống như hòn đá, mèo thật như có mạng giữa hai chân, bay xuống như chồn bay. Con nhớ nhất là âm “mi-ao” kết thúc câu hát cuối cùng của sư phụ, vút lên cao, còn mọi người thì thả hồn theo tiếng hát lên tận chín tầng mây!
- Đồ đệ, chú có thể chủ diễn “Thường Miêu khóc tang” được rồi!
- Chưa được đâu, sư phụ! Nếu như được diễn cùng sư phụ, con xin sắm vai mèo!
Tui nhìn đắm đuối con người ưu tú của vùng Đông Bắc Cao Mật, nói:
- Con thân yêu, chúng ta đang diễn vở ruột thứ hai của kịch Miêu Xoang. Vở này có tên “Đàn hương hình”.
Căn cứ vào qui định của các triều đại để lại, họ đưa bọn tui lên sảnh lớn, đem đến cho bọn tui bốn dĩa thức ăn, một hồ rượu, một xếp bánh tráng, một dúm hành. Bốn đĩa thức ăn, một đĩa là thịt lợn quay, một đĩa thịt gà rán, một đĩa cá, một đĩa thịt bò luộc chấm tương. Bánh tráng to hơn nắp vung, hành mọng nước, rượu hâm nóng hôi hổi. Tui cùng đồ đệ Uùt Sơn, đối mặt cả cười, một Tôn Bính thật, một Tôn Bính rởm, nâng bát rượu lên, cụng bát đánh cốp, ngửa cổ uống ực. Rượu hâm ấm bụng, nước mắt ướt nhòe, giang hồ nghĩa khí, khảng khái cương cường! Nhìn lên đài thượng, dắt tay cùng lên; hóa thành cầu vồng, bay lên trời xanh. Rồi tui ngồi ăn ngốn ngấu, răng đau nuốt chửng, sống gửi thác về, tâm thần bình ổn. Một vở kịch lớn, long trọng mở màn.
Xe tù ra đường phố lớn, hai bên người đông nghịt. Điều mà người biểu diễn mong nhất, là tinh thần thái độ người xem. Phút bi tráng nhất của cuộc đời là lúc lên xe tù ra pháp trường. Tôn Bính tui ba mươi năm diễn trò, chỉ hôm nay mới có phút giây lừng lẫy.
Tui trông thấy lưỡi lê sáng ngời nhấp nhô phía trước, chóp đỏ chóp xanh lấp lóa đằng sau, ánh mắt bà con dàn hai bên phố. Tui trông thấy bao nhiêu hương thân râu phơ phất, bao nhiêu phụ nữ lệ chảy tràn, bao nhiêu em nhỏ miệng há hốc, nước bọt trào ra chảy ướt cằm. Bỗng tui trông thấy Mi Nương lẩn trong đám phụ nữ, lòng đau như cắt, nước mắt rưng rưng. Nam nhi thà chết không rơi lệ, anh hùng biết giấu nỗi đoạn trường.
Xe tù lăn bánh trên đường đá, nắng rọi đầu tù chợt ngứa ran. Thanh la dẫn đường phèng phèng, tháng Tám gió thu nhè nhẹ. Ngẩng nhìn thăm thẳm trời xanh, nỗi lòng tê tái. Nhìn mây trắng trời xanh, chợt nhớ mây in dòng Mã Tang. Chợt nhớ nước sông trong vắt, đem về đãi khách bốn phương. Nhớ Đào Hồng, nhớ hai con, bầm tím ruột gan thù giặc Đức. Chúng làm đường sắt, phá tan tành vùng Đông Bắc! Chạm nỗi đau, bật lên tiếng hát:
Tiền hô hậu ủng oai phong khiếp! Ta mặc long bào, đội kim quan, đai ngọc ngang lưng, dáng đi đường bệ. Bớ phường cẩu trệ đứa nào dám cản bước chân ta…
Lời ca vừa dứt, hàng vạn người hai bên đường ồ lên tán thưởng. Đồ đệ Uùt Sơn của tui chớp thời cơ đệm các loại tiếng mèo, mi-ao mi-ao mi-ao, khiến giọng ca của tui càng mượt.
Ngắm trời cao gió thu vàng lồng lộng, nhìn đất dày cây cỏ xanh rờn, ta đây vốn anh kiệt hóa thân, dựng cờ nghĩa thay trời hành động, cứu Trung Hoa kiếp nạn trầm luân.
Không cho giặc dựng xong đường sắt!
… Vừa ăn xong gan rồng óc phượng, vừa uống xong ngọc dịch quỳnh tương…
mi-ao mi-ao mi-ao!
Đồ đệ khá lắm, đệm đúng nhịp.
Tui nhìn thấy bà con nước mắt chan hòa. Bắt đầu từ trẻ con cùng Uùt Sơn nhại tiếng mèo kêu, rồi đến người lớn, hàng vạn tiếng kêu quyện làm một, như tập trung ở đây toàn bộ thế giới của loài mèo!
Trong tiếng ca Miêu Xoang cao vút tầng mây, trong tiếng mèo ran ran mặt đất, tui trông thấy Viên Thế Khải và Caclôt mặt vàng bệch, lũ quan quân hoảng loạn như gặp địch! Được một lần biểu diễn như thế này trong đời, tui có chết cũng đáng!
Thôi thôi thôi, bà con chớ phiền phiền não não… Bọn gian tặc mở mắt mà trông, đệ tử ta phất cờ nổi dậy, phá tan hoang đường sắt Giao Đông! Ta chết không ân hận, lửa cháy lên rồi, ta những chờ mong!…
Mi-ao mi-ao mi-ao!
Meo meo meo!
Chương 43: GIÁP CON ĐẤU HÓT
Khẩu pháo mặc áo đỏ gầm vang như sấm lúc trời quang, gió quạt ngang, mi-ao ~~. Tớ cùng bố tớ đi thi hành án, trong lòng hoa nở đỏ vàng trắng xanh! Có bố thật là tuyệt! Mi-ao ~~, bố bảo giết người hay giết lợn, tớ thích đến nỗi nhảy cẫng lên. sáng nay tớ chén đẫy, cháo quẩy ở ghênh to, thịt bò ở ghênh nhỏ. Cháo quẩy có mùi máu, ăn như chuột nhắt. Thịt bò cũng có mùi máu, ăn như ăn chuột nhắt. Mi-ao ~~ Cọc đàn hương đã luộc kỹ, đã thử làm trên lợn, bố truyền nghề cho tớ, tay nghề của bố cao. Tớ đợi Tôn Bính đến, xiên cọc đàn hương, xiên xiên xiên từ đít đến đầu. Kìa đám đông ồn ào kéo đến, một phát pháo bắn lên trời cao. Lôi thôi to rồi, chiếc râu hổ hiển linh trở lại, trước mắt tớ, loài n mắt tớ, loài người biến sạch, chỉ còn là chó ngựa bò dê, rắn rùa hổ báo, lại có cả một con ba ba kếch xù ngồi kiệu tám người khênh. Đó là tên ôn dịch Viên Thế Khải. Đừng nghĩa rằng hắn là quan to, hắn còn lâu mới bằng bố tớ.
Miêu Xoang. “Đàn hương hình. Oa oa điệu.”
Tớ mở mắt toàn màu đỏ, chết rồi, cháy ở đâu rồi! Hì hì, không phải cháy, mà là mặt trời mọc. Trong rơm rạ có rất nhiều bọ, tớ ngứa ran khắp người; dầu cháo quẩy chưa chín đã ăn, khiến tớ đầy bụng suốt đêm, liên tục đánh rắm. Tớ thấy cha tớ bây giờ không phải là con báo đen, mà lại là cha tớ. Cha tớ tay lần tràng hạt, ngồi trên long ỷ, oai ra phết! Tớ thèm được ngồi ghế một tí nhưng ca tớ không cho, cha bảo long ỷ không phải ai cũng được ngồi, nếu không phải là đít rồng, ngồi vào sẽ bị lòi dom, bịp, bố đít rồng thì sao con không đít rồng? Cha không đít rồng con không đít rồng, vậy cha không phải là cha, con cũng không còn là con nữa. Từ lâu tớ đã nghe nói: “Rồng đẻ ra rồng, phượng đẻ ra phượng, chuột sinh ra để đào hang”. Cha ngồi trên ghế, nửa mặt đỏ, nửa mặt trắng, mắt nửa mở nửa nhắm, môi mấp máy mà lại không, hình như đang trong giấc mơ đẹp.
Tớ bảo, cha ơi cha, nhân lúc họ chưa tới, cho con ngồi ghế một tí cho đỡ nghiện. Cha nghiêm nét mặt:
- Chưa được, bây giờ chưa được!
Vậy khi nào mới được?
- Đợi làm xong việc này đã! – Cha vẫn nghiêm nét mặt, tớ biết, ông ấy cố làm nghiêm, thực ra ông rất thích tớ, thích chết đi được. Một thằng con trai như tớ ai gặp cũng thích, sao cha lại không thích? Tớ áp sát sau lưng, ôm lấy cổ cha, dùng cằm khẽ gõ vào gáy cha, nói, cha không cho con ngồi ghế thì nhân lúc họ chưa tới, kể cho con nghe chuyện Bắc Kinh. Cha ngán ngẩm, nói:
- Ngày nào cũng kể, đâu mà lắm chuyện thế?
Tớ biết ông ấy giả vờ ngán ngẩm thế thôi.Thực ra, ông ấy rất thích kể chuyện Bắc Kinh. Tớ bảo cha kể đi, nếu không có chuyện mới thì kể lại chuyện cũ. Cha bảo:
- Chuyện cũ thì còn ý nghĩa gì nữa? Có biết câu “Chuyện hay kể mãi, chó không thèm nghe” không?
Tớ bảo, cha, chó không nghe con nghe.
- Cái thằng! – Cha nhìn mặt trời, nói – vẫn còn thời gian, cha kể chuyện Quách Miêu cho con nghe.
Những chuyện cha đã kể, tớ không quên chuyện nào, tất cả một trăm bốn mươi mốt chuyện nhét trong đầu tớ. Đầu tớ như cái rương của thầy thuốc, có rất nhiều ngăn, mỗi ngăn là một chuyện. Rất nhiều ngăn vẫn bỏ trống. Tớ lướt qua các chuyện trong các ngăn, chưa có chuyện Quách Miêu. Mừng quá mừng quá mừng quá, chuyện này mới. Tớ kéo cái ngăn thứ một trăm bốn mươi hai, đợi nạp chuyện Quách Miêu. Cha kể:
- Những năm thời Hàm Phong, có hai cha con đến Thiên Kiều Bắc Kinh. Cha tên Quách Miêu, con tên Miêu Con, cả hai đều giỏi nhại tiếng. Con có biết nhại tiếng là gì không? Là bằng miệng, nhại được tất cả các thứ tiếng.
Họ nhại được tiếng mèo không?
Khi người lớn kể chuyện không được nói leo. Hai cha con hành nghề ở Thiên Kiều, nổi tiếng rất nhanh. Khi đó, cha mới là Cháu Ngoại ở chỗ Già Dư. Nghe chuyện, cha lẻn đi Thiên Kiều xem thực hư. Đến nơi, cha thấy rất nhiều người vây thành vòng tròn trên bãi đất trống. Khi ấy cha rất lùn, người gầy nhom, luồn dưới chân người khác vào bên trong. Chỉ thấy một thằng nhỏ ngồi trên chiếc ghế đẩu, trước mặt là một cái mũ để ngửa. Từ sau tấm màn bằng vải xanh vọng ra tiếng gáy của gà trống. Một con gáy, tiếp đó là mấy chục con gà trống khác chỗ gần chỗ xa gáy theo, nghe rõ cả mấy chú trống choai chưa đủ lông cánh đang tập gáy. Nghe rõ mấy chú trống choai vừa đập cánh phành phạch vừa gáy. Tiếp đó là một bà già đánh thức ông già và con trai dậy. Tiếng ông già ho, nhổ đờm, đánh lửa hút thuốc, gõ tẩu thuốc vào mép giường. Tiếng con trai ngáy, bà già giục dậy, con trai dậy, cằn nhằn, ngáp, mò mẫm mặc quần áo, tiếng mở cửa, đi tiểu sau nhà, tiếp đó, tiếng múc nước rửa mặt. Tiếng bà lão nhóm lửa đun nước, tiếng bễ thổi lửa. Sau đó, tiếng hai cha con ra chuồng bắt lợn. Tiếng lợn chạy quanh chuồng, tiếng lợn đánh vỡ vại nước tiểu. Tiếng lợn xộc vào chuồng gà, tiếng gà sợ hãi kêu cục tác, tiếng gà bay lên đầu tường, tiếng chân sau của lợn đã bị người con tóm, tiếng người cha cùng con trai lôi con lợn ra khỏi chuồng gà, tiếng con lợn kêu thét vì bị kẹt đầu ở chuồng gà, tiếng dây thừng trói chân lợn, tiếng người cha cùng con trai quẳng con lợn lên phản thịt, tiếng lợn giẫy trên phản, tiếng người con trai dùng chày đập đầu lợn, tiếng lợn sau khi bị đập đầu. Rồi tiếng người con trai mài dao trên đá mài. Tiếng người cha kéo cái liễn sành chuẩn bị hứng tiết. Tiếng lưỡi dao của người con thọc vào cổ lợn. Tiếng lợn bị chọc tiết. Tiếng tiết lợn vọt theo dao, lúc đầu tia xuống đất sau mới chảy vào liễn. Tiếp theo là tiếng bà lão bê chậu nước sôi đến, ba người hối hả làm lông lợn. Làm lông xong, tiếng người con mổ bụng lợn, lôi ni tạng ram tiếng con chó lao tới đớp khúc ruột lợn rồi bỏ chạy, tiếng bà lão đánh chửi con chó, tiếng hai cha ông lão móc thịt lợn lên quang treo, tiếng khách hàng đến mua thịt, có bà già, ông già, đàn bà và trẻ con. Bán xong thịt, tiếng đếm tiền, đếm xong tiền, tiếng cả nhà húp cháo. Đột nhiên, tấm màn được vén lên, mọi người thấy phía trong không có gì cả, chỉ mỗi ông già hom hem ngồi đó. mọi người vỗ tay. Thằng nhỏ cầm mũ đi một vòng thu tiền, những đồng xu rơi như mưa vào trong mũ, cũng có đồng rơi xuống đất. Cha mục kích chuyện này, nửa câu cũng không bịa, vẫn là câu muôn thuở: nghề nào cũng có Trạng nguyên.
Kể xong, bố lại tiếp tục nhắm mắt dưỡng thần, còn tớ chìm trong câu chuyện, không muốn ngoi lên. Chuyện bố kể là chuyện hai bố con. Tớ cảm thấy tất cả những câu chuyện mà bố kể về bố con đầu là chuyện của bố con tớ. Bố chính là ông lão Quách Miêu có tài nhại tiếng, còn tớ, chính là thằng con trai ngửa mũ đi một vòng thu tiền, m… eo m… eo m… eo!
Ơû Bắc Kinh, bố tớ đả biễu diễn không biết bao nhiêu lần kỹ nghệ giết người, hấp dẫn hàng ngàn hàng vạn người xem. Họ mê mẩn về tuyệt kỹ của bố tớ, tớ có thể hình dung họ ứa nước mắt vì xúc động, nếu như lúc đó tớ có mặt ở đấy, tay cầm ngửa cái mũ, đầu đội tấm da mèo, đi một vòng mà thu tiền thì hay biết đấy! Tớ vừa thu tiền, vừa nhài tiếng mèo, mi-ao mi-ao mi-ao, được biết bao nhiêu tiền nhỉ? Đúng là… Sao bố không về nhận tớ sơm sớm một tí, cho tớ đến Bắc Kinh. Nếu tớ sống bên bố từ nhỏ, bây giờ tớ đã trở thành Trạng Giết Người.
Hồi bố tớ mới về, có người khẽ bảo tớ, rằng bố cậu không phải là người. Không là người thì là cái gì? Là quỉ nhập tràng! Họ bảo, Giáp Con thử nhớ lại, khi mẹ cậu chết, mẹ cậu có nhắc tới bố cậu không? không hả? Chắc chắn là không. Mẹ cậu khi chết không nói cậu có bố, giờ bỗng nhiên có một ông bố như từ trên trời rơi xuống, như từ dưới đất chui lên, nếu không phải là ma quỉ thì là cái gì?
- Đ. mẹ các vị, mi-ao mi-ao mi-ao, tớ xách dao xộc tới bọn nói hớt. Tớ không có bố đã hơn hai mươi năm, mãi mới có một ông bố các người lại bảo không phải bố tớ không những không phải bố tớ mà là con quỉ! Các người đúng là gần chùa gọi bụt bằng anh! Tớ múa đao xông tới, tớ mà bổ một nhát thì xẻ dọc từ đỉnh đầu xuống tận gót chân. Bố tớ bảo trong Hình điển gọi cách chém này là “xả”, hôm nay tớ xả những kẻ bảo bố tớ không phải bố tớ. Họ thấy tớ nổi cáu, sợ vãi đái ra quần, bỏ chạy tán loạn. Mi-ao mi-ao mi-ao, bọn chuột dài đuôi rờ hồn! Bố tớ không phải tay vừa, tớ cũng không phải tay vừa đâu nhé! Mi-ao mi-ao mi-ao, kẻ nào không tin hãy thử xem, bố tớ là loại đao phủ ngồi long ỷ, Vua cho phép tiền trảm hậu tấu, gặp người chém người, gặp chó chém chó, tớ là tay dao tay búa của bố tớ, chém người như giết chó mổ lợn.
Tớ đòi bố kể chuyện nữa, bố bảo:
- Đừng quấy, chuẩn bị đi, đừng để đến lúc đó bấn tinh lên.
Tớ biết hôm nay làm việc lớn – ngày có việc lớn cũng là ngày đại hỉ của bố con tớ – Sau này còn khối dịp kể chuyện, miếng ngon đừng ăn hết một lần. Chỉ cần thi hành xong án Đàn Hương Hình, bố vui lên, còn lo gì bố không kể hết chuyện này chuyện khác. Tớ ra sau lều đi vệ sinh, nhân thể ngó bên ngoài một chút. Sân khấu, đài Thăng Thiên, đàn bồ câu bay trong nắng, tiếng vỗ cánh rào rào. Xung quanh sân bãi có một số lính, cọc gỗ, lính, cọc gỗ. Rìa bãi có mấy khẩu pháo nằm bẹp, có người bảo đó là pháo ba ba, tớ bảo đó là pháo chó. Pháo ba ba, pháo chó cũng thế, bóng nhẫy, sủa ông ổng, tấm lưới rêu trùm lên ba ba, tấm lưới lông trùm lên mình chó, mi-ao mi-ao mi-ao.
Tớ vòng ra trước lều, chân tay ngứa ngáy, muốn làm một việc gì đó. Ngày thường thì vào giờ này tớ đã mổ xong chó lợn, móc thịt lên giá đâu vào đấy, mùi thịt tươi theo chim vành khuyên bay khắp nơi, người mua thịt xếp hàng trước cửa, tớ cầm dao rựa đứng trước thớt, tóm lấy tảng thịt nóng hôi hổi hạ một nhát, cần chừng nào xả đúng chừng ấy, không sai nửa hoa. Khách hàng giơ ngón tay cái trước mặt tớ: Giáp Con giỏi thiệt! Tớ biết tớ giỏi, cần gì các người nói ra! Nhưng hôm nay tớ cùng với bố làm việc lớn, việc này quan trọng hơn giết lợn. Thế còn khách mua thịt thì sao? Làm sao bây giờ? Chịu, các vị ăn chay một hôm vậy.
Bố không kể chuyện cho nghe nữa. Chán thật! Tớ vòng ra chỗ bếp, lửa trong lò đã tắt, dầu trong ghênh phẳng lì, bóng loáng. Không phải dầu, mà là một tấm gương. Gương bằng đồng thau sáng trong, sáng hơn cả mặt vợ tớ, lộn ngược từng cái lông trên mặt tớ. Máu đen trước cửa bếp và trên vách lò. Đó là máu Ba Tống. Máu Ba Tống không chỉ bắn trước cửa bếp và trên thành bếp, mà còn bắn vào trong ghênh dầu. Phải chăng có máu Ba Tống nên dầu mới óng ánh như vậy? đợi khi thi hành xong án Đàn Hương, khênh chiếc ghênh dầu này về sân cho vợ làm gương soi. Nếu vợ đối xử không tốt với bố, tớ không cho soi. Tối qua, lúc tớ đang mơ mơ màng màng thì nghe thấy “Pằng” một phát, Ba Tống đã chúi dầu vào trong ghênh, lôi được ra thì đã chín quá nửa, hay thật, mi-ao mi-ao mi-ao! Thằng cha bắn giỏi! Bố không biết ai bắn, bọn quan quân nghe tiếng súng chạy tới cũng không biết. Chỉ tớ biết. bắn giỏi như vậy ở Cao Mật chỉ có hai người, một là Ngưu Thanh chuyên săn thỏ, một là quan huyện Tiền Đinh. Ngưu Thanh chỉ còn mắt trái. Mắt phải mù do súng phá hậu. Sau khi mù mắt phải, Ngưu Thanh bắn cực chuẩn. Hắn chuyên bắn thỏ đang chạy, hắn mà nâng súng lên là con thỏ về chầu Diêm vương. Ngưu Thanh là bạn thân của tớ, bạn thân của tớ là Ngưu Thanh. Còn một tay súng bắn giỏi như thần là quan huyện Tiền Đinh. Dạo tớ đi Bắc Đại Hoang hái thuốc cho vợ, tớ thấy quan huyện và hai tùy tùng là Xuân Sinh và Lưu Phác săn thỏ ở đấy. Xuân Sinh và Lưu Phác dồn cho thỏ chạy, quan huyện cưỡi ngựa vọt lên, rút súng lục bắn luôn không cần ngắm, con thỏ nhảy dựng cao nửa thước, chết liền.
Tớ nằm bẹp trong đám cỏ khô, nghe Xuân Sinh ngọt như mía lùi, tán dương tài bắn của ông lớn. Lưu Phác thì ngồi trên ngựa, đầu ngục trước ngực, nét mặt không biểu lộ gì. Vợ tớ có lần nói, tay chân thân tín của quan huyện tên là Lưu Phác, là con nuôi của phu nhân quan huyện. Anh ta là con trai một ông lớn, bụng đầy chữ, có bản lĩnh. Tớ không tin, có bản lĩnh thì sao phải đi làm đầy tớ? Có bản lĩnh thì phải như bố tớ, cầm đại đao, mặt bôi đỏ. Sật! Sật! Sật! Sật! Sật! Sật! Sáu cái đầu rơi xuống đất!
Tớ nghĩ bụng: quan huyện bắn không giỏi, chẳng qua là gặp may, ngắm trúng một con thỏ chết. Con sau chưa chắc đã trúng. Quan huyện hình như biết được ý nghĩ của tớ, giơ súng bắn lên một phát, con chim nhỏ đang bay rơi xuống như hòn đá, ngay bên cạnh tớ. Mẹ ơi, bắn giỏi thiệt! Mi-ao mi-ao. Con chó săn của quan huyện chạy tới, tớ cầm vội con chim. Con chim nóng bỏng trong tay tớ. Con chó sủa gâu gâu trước mặt ớ. Chó thì tớ không sợ. Chó sợ tớ. Tất cả chó ở Cao Mật trông thấy tớ là cụp đuôi bỏ chạy. Chó sợ tớ, chứng tỏ bản tướng của tớ giống bố tớ, đều là báo đen. Con chó của quan huyện rất hung hăng, thực ra, qua tiếng sủa, nó chẳng qua chó cậy gần nhà, cáo mượn oai hùm thế thôi, trong bụng nó sợ tớ. Tớ là Diêm vương của chó vùng Cao Mật. Thấy chó sủa, Xuân Sinh và Lưu Phác chạy tới. Lưu Phác thì không quen, nhưng Xuân Sinh thì là bạn. Hắn thường xuyên đến nhà tớ chén thịt chó, uống rượu, lần nào tớ cũng bán rẻ cho hắn. Xuân Sinh hỏi, Giáp Con đến đây làm gì? Tớ bảo tớ đến đào cây thuốc, vợ tớ đau, tớ phải kiếm cây đứt ruột thân đỏ lá xanh, làm thuốc cho vợ. Anh có biết cây đứt ruột không? Biết thì làm ơn chỉ cho tớ, bệnh vợ tớ không nhẹ đâu. Quan huyện đến trước mặt tớ, nheo mắt nhìn tớ từ đầu đến chân, hỏi tớ người ở đâu tên chi. Tớ không trả lời, cứ ú ớ trong miệng. Hồi nhỏ, mẹ tớ dạy, hễ gặp quan hỏi chuyện thì phải giả vờ câm. Tớ nghe thấy Xuân Sinh ghé tai nói nhỏ với quan huyện: “Chồng Tây Thi Thịt Cầy, hơi ngớ ngẩn…”. Tớ nghĩ bụng, đ. bà thằng Xuân Sinh, vừa nãy mi còn nói mi là bạn thân của tớ! Thế mà là bạn thân? Bạn thân mà nói bạn thân là hơi ngớ ngẩn! Mi-ao mi-ao mi-ao, đ. cụ mi, mi bảo ai hơi ngớ ngẩn? Tớ mà hơi ngớ ngẩn thì mi là ngớ ngẩn hoàn toàn!
Ngưu Thanh sử dụng cây súng tự tạo, bắn ra một chùm đạn ghém; quan huyện sử dụng cây súng tây, bắn ra đạn chỉ có một viên. Trên đầu Ba Tống chỉ có một lỗ đạn, anh bảo không phải là quan huyện bắn thì ai vào đấy? Nhưng vì sao quan huyện bắn chết Ba Tống? Ờ, tớ hiểu rồi, Ba Tống ăn cắp tiền của quan huyện, chắc là thế. tiền của quan mà thích lấy thì lấy sao? Anh ăn cắp tiền của quan, không bắn chết anh sao được? Đáng kiếp, đáng kiếp! Mi cậy cửa quan, gặp tớ không thèm chào một tiếng. Mi còn nợ tớ năm xâu tiền, đến nay vẫn chưa trả, ngươi không trả, tớ cũng chẳng dám đòi, giờ thì tớ tiền mất, còn mi thì toi mạng. Vậy mạng sống quan trọng hay tiền quan trọng? Tất nhiên là mạng sống quan trọng hơn. Mi cầm số tiền quịt của tớ mà đi chầu Diêm vương.
Đêm qua, sau tiếng súng, quan quân lập tức ùa tới. Họ hối hả lôi Ba Tống ra khỏi ghênh. Đầu hắn thơm phức, máu và dầu cùng rỏ giọt, chẳng khác bánh hồ lô chiên dầu. Mi-ao mi-ao! Quan quân đặt hắn xuống đất, hắn chưa chết hẳn, hai chân vẫn co giật như con gà bị cắt tiết. Quan quân giương mắt nhìn nhau, không biết nên làm gì. Một đầu mục chạy tới, ấn bố tớ và tớ vào trong lều, rồi hướng về phía viên đạn bắn tới, lẩy một phát đạn. Lần đầu tiên tớ nghe súng nổ ngay bên tai, súng tây, mà lại là súng Đức, bắn xa mấy dặm, đạn xuyên thủng tường. Quan quân bắt chước viên đầu mục, chĩa súng về phía viên đạn bắn tới, mỗi người nã một phát. Bắn xong, đầu nòng có khói trắng, mùi thuốc súng nồng nặc, chẳng khác thuốc pháo ngày Tết nguyên đán. Tiếp đó, viên đầu mục quát: “Truy kích!”. Mi-ao mi-ao, quan quân hò la, nhằm hướng vừa bắn, xông lên. Tớ định chạy theo họ thì bị bố tớ nắm tay giữ lại. Tớ nghĩ bụng, một lũ ngốc! Truy thì truy hướng nào? Chắc chắn quan huyện cưỡi ngựa, trong lúc các người loay hoay lôi Ba Tống ra ngoài, ông ta đã thúc ngựa chạy về huyện. Ngựa quan là ngựa xích thố, toàn thân màu hồng không sợi tạp, khi chạy như một quả cầu lửa, càng chạy dáng càng to, réo ù ù. Con ngựa của quan huyện vốn là của Quan công, ngày chạy ngàn dặm, không ăn cỏ, đói ăn đất, khát uống gió – đấy là bố tớ bảo thế. Bố tớ còn bảo, nên gọi ngựa là xích thố là ngựa ăn đất, ngựa uống gió. Ngựa mà ăn đất uống gió thì là tinh của loài ngựa. Khi nào tớ có một con ngựa như thế, tớ nhường bố tớ cưỡi trước, bố không nỡ cưỡi thì tớ cưỡi. Cái gì tốt thì nên nhường cho bố, tớ là đứa con có hiếu, có hiếu nhất vùng Cao Mật, có hiếu nhất phủ Lai Châu, có hiếu nhất tỉnh Sơn Đông! Mi-ao mi-ao mi-ao!
Quan quân truy kích một hồi, rồi lác đác trở lại. viên đầu mục bảo bố tớ:
- Già Triệu, để đảm bảo an toàn, Già không nên đi khỏi lều, đây là lệnh cu3a Viên đại nhân.
Bố tớ không trả lời, chỉ cười nhạt. Mấy chục quân quan vây chặt cái lều, mi-ao mi-ao mi-ao, biến bọn tớ thành bửu bối. Viên đầu mục thổi tắt ngọn nến, bố trí hai bố con tớ ở chỗ không có ánh trăng rọi vào. Ông ta còn hỏi bố tớ, cọc đàn hương ninh kỹ chưa, bố tớ bảo cơ bản được rồi. Viên đầu mục lôi củi trong bầu lò ra, tưới nước cho tắt, mùi tro rất thơm. Tớ khịt mũi rất mạnh. Trong bóng tối, tớ nghe bố nói một mình hoặc có thể là nói với tớ:
- Đây là ý trời! Hắn tế cọc đàn hương.
Bố, bố nói gì thế?
- Con ngủ đi, ngày mai làm việc lớn.
Bố, con đấm lưng cho bố?
- Khỏi.
Con gãi ngứa cho bố nhé?
- Ngủ đi – Bố hơi khó chịu, nói.
Mi-ao mi-ao.
- Ngủ đi!
Sau khi trời sáng, đám quan quân bố trí xung quanh lều rút đi, thay vào đó là một tốp lính Đức. Chúng phân tán xung quanh bãi, mặt quay ra, đít quay vào trong. Sau đó lại có một tốp quân quan, cũng phân tán xung quanh bãi, nhưng khác bọn lính Đức ở chỗ, mặt quay vào đít quay ra. Sau đó lại có sáu quân quan, sáu lính Đức, bốn đứng quanh lều, bốn đứng quanh sân khấu, bốn đứng quanh Thăn Thiên đài. Bốn đứng quanh lều, hai lính của Viên, hai lính Đức. Chúng đều ngoảnh ra, lưng quay vào trong. Cả bốn như thi nhau đứng nghiêm, thẳng đuỗn.
Bàn tay lần tràng hạt của bố dừng trong giây lát, một hòa thượng già đang nhập định, A di đà Phật. A di đà Phật, vợ tớ thường xuyên nói vậy. Tớ dán mắt vào tay bố. Mi-ao mi-ao, không phải bàn tay bình thường, đây là tay của triều Đại Thanh, cánh tay của đất nước, là tay của Từ Hi lão Thái Hậu và Đức Vạn tuế. Từ Hi lão Thái hậu và Đức Vạn tuế định giết ai thì giết bằng tay bố tớ. Lão Thái hậu bảo bố tớ: Ta bảo tên giết người, giết hộ ta người này! Bố tớ nói: Tuân lệnh! Tay của bố hay thật, để yên thì như con chim nhỏ, lúc cử động thì như đôi cánh. Mi-ao mi-ao. Tớ nhớ vợ có lần bảo, tay bố nhỏ tới mức quáo đản. Nhìn tay, càng cảm thấy ông không phải người thường, nếu không quỉ thì là tiên. Đánh chết thì anh cũng không tin đây là đôi tay đã giết hàng ngàn người! Đôi tay này chỉ thích hợp với nghề đỡ đẻ. Ơû quê tớ người ta gọi bà đỡ là Già Lành. Già Lành! Chà chà, tớ chợt hiểu vì sao ở kinh thành người ta gọi bố tớ là Già. Ông là bà đỡ. Bà đỡ thường là nữ, bố tớ là na, là đàn ông. Đàn ông ư? Đúng, đàn ông. Tớ kỳ cọ cho bố khi tắm, từng thấy cái chim bé tí, xanh lét như quả bầu chưa rụng rốn. Hì hì… cười cái gì? Quả bầu điếc! Hì hì… đồ ngốc! Đàn ông mà đỡ đẻ? Không sợ người ta cười cho sao? Đàn ông đỡ đẻ thì trông thấy cái kẽ nứt ở đít phụ nữ, không sợ người ta vác gậy nện cho một trận sao? Không hiểu, càng nghĩ càng không hiểu, thôi không nghĩ nữa, ai rỗi hơi thì nghĩ.
Bố tớ chợt mở mắt nhìn xung quanh rồi đeo tràng hạt lên cổ, đi đến trước ghênh. Tớ trông thấy trong ghênh có bóng của tớ và cả bóng của bố tớ. Dầu trong ghênh còn sáng hơn gương, soi rõ từng sợi lông trên mặt tớ. Bố cầm lên một cọc đàn hương, mặt dầu nhăn lại, vỡ ra. Mặt bố tớ cũng biến dạng, dài như mặt dê. Tớ giật thót, bản tướng của bố là báo đen, bản tướng của tớ vốn là con sơn dương, trên đầu có hai cái sứng. Mi-ao mi-ao, biết bản tướng của mình rồi đâm nản. Bản tướng của bố là báo đen, bản tướng của quan huyện là hổ trắng, bản tướng của vợ là rắn trắng, còn tớ thì lại là sơn dương râu dài. Sơn dương thì là cái thá gì, tớ không là sơn dương. Bố đưa cọc đàn hương ra chỗ có nắng, ngắm như ông thợ rèn ngắm thanh bảo kiếm vừa rèn xong. Dầu trên cọc mảnh như tơ chảy trở lại trong ghênh, tạo thành lúm đồng tiền trên mặt dầu. Bố thấy dầu đã chảy hết, liền rút miếng lụa trắng trong bọc ra lau thanh cọc, dầu thấm rất nhanh vào khăn. Bố để khăn xuống mặt lò, một tay cầm đốc, một tay cầm mũi, dùng sức uốn thanh cọc một cái. Thanh cọc uốn cong rồi trở lại như cũ. Bố tỏ ra rất mãn nguyện, rất ít khi bố vui vẻ như thế. Bố vui thì tớ như mở cờ trong bụng. Mi-ao mi-ao, đàn hương hình hay thật, nó làm bố tớ vui! Mi-ao mi-ao.
Bố đem hai cây cọc đàn hương vào trong lều, để trên chiếc bàn nhỏ, rồi quì xuống cung kính lạy mấy lạy, làm như trên bàn có thần linh, người trần mắt thịt không thể trông thấy. Lạy xong, bố trở lại ngồi trên ghế, che tay ngang mày xem mặt trời. Mặt trời đã lên cao một con sào. Thường thì vào giờ này, tớ đã bán hết thịt lợn, chuyển sang mổ chó. Sau khi ngó mặt trời, bố ra lệnh, mắt không nhìn tớ:
- Giết gà đi, con!
Mi-ao mi-ao mi-ao!
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian